65 năm truyền thống ĐHTH HN

Nhà Toán học đa tài Phan Đức Chính

NGND. PGS. TS. Phan Đức Chính sinh ngày 15/9/1936 tại Sài Gòn, mất ngày 26/8/ 2017 tại TP HCM, thọ 82 tuổi. Ông là một trong những người thầy đầu tiên của lớp Chuyên Toán đầu tiên của Việt Nam (Lớp Chuyên Toán A0 Khóa 1, ĐHTHHN), đã tham gia đào tạo nhiều học sinh giỏi được Huy chương Toán quốc tế và cũng là người đã viết, dịch nhiều giáo trình Toán học kinh điển ở Việt Nam.

Nhà Toán học đa tài Phan Đức Chính

NGND. PGS. TS. Phan Đức Chính

Nhà khoa học tài năng

Thầy Chính thông thạo nhiều ngoại ngữ, nhất là tiếng Pháp, rồi đến tiếng Nga và tiếng Anh. Ông đã từng học Trường trung học Albert Sarraut và làm nghiên cứu sinh tại Moscow. Chúng tôi còn nhớ, GS. Phan Đức Chính cùng với GS. Đoàn Quỳnh và GS. Hoàng Xuân Sính là ba phiên dịch viên xuất sắc khi các GS Pháp được Giáo sư Bộ trưởng Tạ Quang Bửu mời sang giảng bài ở Việt Nam.

Thầy Phan Đức Chính được cử sang Nga (Liên Xô cũ) làm nghiên cứu sinh năm 1961 và đỗ Tiến sĩ năm 1965 (khi mới 29 tuổi). Thầy là đồng tác giả của cuốn sách chuyên khảo nổi tiếng "Độ đo, tích phân và đạo hàm trong không gian tuyến tính"/ “Measure, Integral, Derivative in Linear Space”, G. E. Shylov, Phan Đức Chính (Nauka, Moskva 1967, nguyên bản tiếng Nga được dịch ra tiếng Anh, tiếng Tiệp). Đây có lẽ là cuốn sách Toán học đầu tiên được xuất bản ở Liên Xô có tên tác giả Việt Nam.

Nhà Toán học đa tài Phan Đức Chính

PGS.TS. Phan Đức Chính với cuốn chuyên khảo nổi tiếng bằng tiếng Nga do ông và GS. G. E. Shylov viết chung.

Tôi được nghe các thầy cô khoa Toán kể lại: những năm thầy Chính mới bảo vệ xong luận án tiến sĩ và về nước giảng dạy, nghiên cứu khoa học tại khu sơ tán Vân Yên, Đại Từ, Thái Nguyên, thầy say mê đọc sách, soạn bài và nghiên cứu khoa học suốt ngày đêm, bám chặt chiếc bàn làm việc đến mức mòn vẹt cả cái ghế ngồi.

Vừa về nước, thầy được giao dạy môn Đại số cho Lớp A0 khoá 1 của chúng tôi. Thầy đang đầy nhiệt huyết và tài năng, muốn truyền kiến thức cho lớp trẻ. Chúng tôi thì rất hăm hở học hỏi cái mới, nhưng chưa được chuẩn bị kiến thức gì đáng kể...

Người thầy truyền cảm hứng

Vào một ngày tháng 9/1965, tôi và các bạn của mình rất vui khi nhận được giấy triệu tập vào học Lớp chuyên Toán đầu tiên (khoá  I, Lớp 9 và 10, 1965–1967) của Trường ĐHTHHN. Giấy triệu tập do Phó Hiệu trưởng GS. TSKH. Lê Văn Thiêm ký. Lúc đó, là một học trò nhà quê, nên tôi chưa hiểu được rằng người ký chính là một nhà Toán học Việt Nam xuất sắc. Sau này tôi được biết GS. Lê Văn Thiêm là người Việt Nam đầu tiên có bằng Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ Khoa học) Toán học, là người Việt Nam đầu tiên làm postdoc tại CHLH Đức theo Học bổng Nghiên cứu Av. Humboldt và là người anh cả của nền Toán học Việt Nam hiện đại.

May mắn cho chúng tôi, những học sinh chuyên Toán khoá I, các giáo sư, các thầy dạy môn Toán đều là những nhà toán học tài ba của Khoa và Bộ môn Giải tích như: Giáo sư Hoàng Tuỵ (dạy Logic toán và Toán học hữu hạn), Phan Đức Chính (dạy Đại số), Hoàng Hữu Đường, Nguyễn Thừa Hợp và Lê Minh Khanh (dạy Hình học), Nguyễn Duy Tiến (dạy bài tập Hình học), Đặng Hữu Đạo và Nguyễn Viết Phú (dạy bài tập Đại số). Những môn ngoài Toán học, như Vật lý, Hóa học, Sinh học, Văn học, Sử học, Địa Lý, Nga văn, … cũng được các giáo sư, các thầy cô có uy tín từ các khoa khác của ĐHTHHN đến dạy.

Là một học sinh “nhà quê mới ra tỉnh”, khi lần đầu tiên được nghe những bài giảng của các thầy, cô vừa trẻ vừa giỏi vừa tràn đầy nhiệt huyết, tôi có cảm giác như mình đang được bố mẹ cho ra phố xem “ảo thuật” vậy.

Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng tôi vẫn còn nhớ những kỷ niệm sâu sắc về tâm huyết và tài năng sư phạm của các thầy, cô của mình. Mặc dù rất hiếm khi, nhưng lớp A0 chúng tôi ngày ấy cũng đã được đón GS. Bộ trưởng Tạ Quang Bửu, GS. Hiệu trưởng Nguỵ Như Kon Tum và GS. Phó Hiệu trưởng Lê Văn Thiêm đến thăm, nói chuyện hoặc giảng bài.

Các bài giảng đầu tiên của PGS. TS. Phan Đức Chính về hàm số sơ cấp và đồ thị của nó, về giới hạn của các dãy số vô hạn,... trong Đại số lớp 9 và lớp 10 đã dạy chúng tôi làm quen với những khái niệm, tư duy mới khi chuyển từ toán học rời rạc sang toán học liên tục.

Các bài toán và các câu hỏi trong mỗi một bài tập mà thầy Phan Đức Chính cho học trò làm bài kiểm tra thường được xếp theo thứ tự khó dần, gợi mở dần, ít khi “đánh đố” nhưng cũng không dễ gì làm được trọn vẹn...

Thầy Chính từng làm phó Đoàn học sinh Việt Nam tham dự kỳ thi Olympic Toán học (IMO) trong các năm 1974-1976 (trưởng Đoàn là nhà giáo Lê Hải Châu) và là Trưởng Đoàn các năm 1994, 1996 và 1997. Cho đến nay, đã có 3 bài toán khó và hay do Việt Nam đề nghị và đã được chọn làm một trong các bài toán thi IMO, ở các năm 1977 (bài của PGS. TS. Phan Đức Chính), năm 1982 (của PGS. TS. Văn Như Cương) và năm 1987 (của TS. Nguyễn Minh Đức).

Nhà Toán học đa tài Phan Đức Chính

Thầy Lê Hải Châu và thầy Phan Đức Chính cùng với các học sinh Đoàn IMO Việt Nam đầu tiên năm 1974.

Hơn nửa thế kỷ đã qua, mặc dù những kiến thức cụ thể thu được từ bài giảng của các thầy có thể đã bị quên khá nhiều, nhưng ấn tượng, ký ức về trình độ, tài năng, tâm huyết và lòng yêu nghề của các bậc thầy vẫn còn đọng lại mãi mãi trong suốt cuộc đời chúng tôi như một chất men say. Đúng như William A. Ward đã nói: “Người thầy trung bình chỉ biết nói, người thầy giỏi biết giải thích, người thầy xuất chúng biết minh hoạ, người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”.

Nhà Toán học đa tài

Tôi dùng cụm từ "đa tài" ở đây theo cả hai nghĩa. Nghĩa hẹp ở chỗ thầy Chính nghiên cứu Toán học, làm luận án tiến sĩ chủ yếu trên các không gian vô hạn chiều. Sau khi đỗ Tiến sĩ ở Nga về, trong nhiều năm thầy giảng dạy cho sinh viên và nghiên cứu sinh Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (ĐHTHHN) về giải tích hàm và ứng dụng. Nghĩa rộng vì đồng thời và sau đó, thầy dành nhiều thời gian giảng dạy, bồi dưỡng toán học sơ cấp, trong các không gian với số chiều từ 1, 2, 3,..., n,... đến vô cùng, cho các học sinh giỏi toán thi quốc gia, quốc tế. Ngoài ra, thầy còn say mê cả âm nhạc, thơ ca, thích uống rượu, ...

Thầy Phan Đức Chính được đông đảo bạn bè, đồng nghiệp, học trò trong và ngoài giới Toán học, trong và ngoài nước khâm phục và yêu quý. Bởi vì thầy là một nhà toán học tài ba, một nhà sư phạm mẫu mực và một người gốc Hà Thành theo nghĩa văn hoá rộng của từ này.

Trong thời gian sơ tán đầu những năm 1970 tại Thạch Nham (Hà Đông), PGS. TS. Hoàng Quốc Toàn và tôi được đọc tập thơ chép tay công phu, dài và rất hay của thầy Phan Đức Chính, trong đó có những bài thơ tiền chiến và những bài thơ tình bất hủ của các nhà thơ nổi tiếng. Trong tập thơ chép tay của thầy, tôi thích nhất là bài “Tây tiến” của Quang Dũng, bài “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm và bài “Núi đôi” của Vũ Cao.

Đã có những thời khắc, nhà toán học trẻ Phan Đức Chính có hân hạnh được tiếp trà và thưa chuyện với Văn Cao - người nghệ sĩ kiệt xuất - về những bản nhạc tiền chiến của ông. Một lần vừa chơi piano một bản nhạc mới sáng tác của mình, Văn Cao vừa hỏi thử nhà toán học trẻ Phan Đức Chính: "Cậu thấy bản nhạc vừa rồi của tớ thế nào?". Nhà toán học trẻ tự tin và lễ phép đáp: "Thưa anh, em vẫn thích các bản nhạc tiền chiến của anh hơn". Câu trả lời thẳng thắn và sâu sắc của nhà toán học trẻ đã gây ấn tượng tốt đẹp cho nghệ sĩ Văn Cao.

Ai dám nói rằng nhà toán học thì khô, thì chán? Đến một nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà thơ vĩ đại như Văn Cao còn quý mến kia mà!

Sau một số lần được tiếp kiến, nhà toán học Phan Đức Chính ngày càng ảnh hưởng bởi Văn Cao, từ cách dùng trà, hút thuốc đến uống rượu. Nếu ngắm những bức ảnh gần đây của thầy Phan Đức Chính, ta thấy ngay thầy có nhiều nét giống Văn Cao: Gầy, mặt xương xương, râu dài, tóc thưa và bạc. Nếu nói theo ngôn ngữ Toán học thì hai người “đồng dạng”, “đồng phôi”.

Từ khi nghỉ hưu, dù sức khoẻ không tốt, nhưng PGS.TS. Phan Đức Chính vẫn tham dự các Lễ kỷ niệm của Khoa, của Khối phổ thông chuyên Toán, các cuộc gặp mặt của hội cựu giáo chức, giao lưu với bạn bè, đồng nghiệp và học trò cũ. Thầy rất yêu quý thầy và trò Khối Chuyên A0, nhất là PGS. TS. Nguyễn Vũ Lương và ThS. Phạm Hùng.

Nhà Toán học đa tài Phan Đức Chính

Thầy Phan Đức Chính và học trò Trần Văn Nhung (ảnh: TS. Trần Nam Dũng).

Thỉnh thoảng tôi có dịp đến thăm, được gặp, tâm sự và uống rượu với thầy ở TP HCM hoặc Hà Nội, trong các hoạt động của Khối chuyên Toán – Tin hoặc Tổ Giải tích của Khoa Toán – Cơ – Tin (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội).

Khi thầy còn ở Hà Nội, có lần tôi vào thăm thầy ở Bệnh viện Hữu nghị và dự các lễ mừng thọ của thầy do Khối chuyên Toán – Tin tổ chức, tôi thấy thầy đã yếu đi nhiều, nhưng đôi mắt vẫn còn sáng, trí tuệ minh mẫn và hai thầy trò nắm chặt tay nhau...

GS. TSKH. Nguyễn Duy Tiến, nhà báo Hàm Châu, GS. TSKH. Đặng Hùng Thắng, GS. TSKH. Nguyễn Hữu Việt Hưng, …, đều có những bài viết rất hay về người thầy lớn của mình. Hai người con trai của Thầy, anh Phan Đức Thịnh và anh Phan Đức Trung, đã viết về Bố mình trong những bài rất cảm động. Gần đây tôi được nói chuyện với GS. TSKH. Nguyễn Tố Như (em rể của thầy Phan Đức Chính), tôi càng hiểu thêm và càng quý trọng PGS.TS. Phan Đức Chính – người thầy lớn của mình và của bao thế hệ học sinh, sinh viên Trường ĐHTHHN.

Hà Nội, ngày 1/10/2021

Trần Văn Nhung (*)

(Một học trò của thầy Phan Đức Chính, Nguyên học sinh Lớp Chuyên Toán A0 Khóa 1 (1965 – 67), nay là Trường THPT Chuyên KHTN, Trường ĐHKHTN, ĐHQGHN)

-------------------------

Thông tin thêm từ Ban biên tập:

(*) GS. TSKH. Trần Văn Nhung, Nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo, cựu sinh viên Khoa Toán - Cơ - Tin học, nguyên Chủ nhiệm Khoa Toán - Cơ - Tin học và Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.